Khái niệm và phân loại các thể chế (institutions) trong doanh nghiệp

1. Khái niệm thể chế

Có nhiều khái niệm khác nhau về thể chế phụ thuộc vào đặc điểm mỗi quốc gia và mục đích nghiên cứu, các học giả, tổ chức sẽ đưa ra các cách định nghĩa khác nhau. Hamilton (1932) là một trong những tác giả đưa định nghĩa đầu tiên về thể chế, “là một biểu tượng lời nói để mô tả xã hội tốt hơn được sử dụng để mô tả. Thể chế bao gồm cách suy nghĩ hay hành động phổ biến có từ lâu đời và đã trở thành quen của một nhóm người hoặc văn hóa, tập quán của một dân tộc” . Đây là một trong những cách định nghĩa phổ biến của các học giả nghiên cứu, bởi nó đưa ra được các lý luận nền tảng phục vụ cho hoạt động phân tích, mô tả, kiểm tra và các đánh giá lý thuyết khác.

Dưới góc độ quản lý, thể chế là “một hệ thống cấu trúc mà trong đó, những cá nhân nắm quyền lực được cam kết có các giá trị hoặc lợi ích nhất định” (Stinchcombe, 1968, trang 107). Định nghĩa này nhấn mạnh vai trò của quyền lực và cơ quan nhà nước trong bảo đảm các giá trị và lợi ích cho quốc gia. Cùng góc độ tiếp cận này, Jepperson (1991, trang 145) cho rằng, thể chế là các mô hình triển khai các quy định, quy tắc trên thực tế, trong đó, “mô hình được triển khai thông qua các quy định thưởng, phạt được xây dựng bởi cơ quan quyền lực nhà nước nhằm xây dựng xã hội và chống lại các thay đổi tiêu cực” . Định nghĩa này đặc biệt nhấn mạnh vai trò của quyền lực nhà nước dưới hình thức kiểm soát. Theo đó, sự tồn tại của các thể chế ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của các cá nhân, tổ chức và xã hội.

Ngoài ra khái niệm “thể chế” cũng được một số tác giả định nghĩa, trong đó chủ yếu tập trung vào khả năng ảnh hưởng đến hành vi và mối quan hệ con người của con người trong tổ chức. Barley và Tolbert (1997) xác định thể chế là “các quy tắc xác định chung các tác nhân xã hội và các hoạt động hoặc mối liên hệ giữa chúng” (trang 96). Burns và Scapens (2000) cũng xác định thể chế là “các giả thiết chung nhằm xác định, đánh giá các hoạt động của con người và mối liên hệ giữa các hoạt động này” (trang 8). Cả hai định nghĩa đều đề cập đến các hoạt động và mối quan hệ của các cá nhân và sự ảnh hưởng của các thể chế xã hội tới các hoạt động và mối quan hệ này. Theo đó, các tác giả giải thích ảnh hưởng của thể chế xã hội đối với các hành động cá nhân trong các doanh nghiệp thông qua một số yếu tố như ngôn ngữ, quy tắc chung,…

Scott (1995) đưa ra khái niệm “thể chế” chi tiết và bao quát hơn. Cụ thể, “thể chế là các cấu trúc xã hội đã đạt được mức độ phát triển cao, điển hình như các yếu tố văn hoá-nhận thức, quy chuẩn, các hoạt động liên quan và các nguồn lực, … Những yếu tố này mang lại sự ổn định, đảm bảo và ý nghĩa cho xã hội. Các thể chế được lưu truyền bởi nhiều phương thức khác nhau, bao gồm các hệ thống biểu tượng, hệ thống quan hệ, thói quen, và các văn bản. Các thể chế hoạt động ở các cấp thẩm quyền khác nhau, từ thế giới đến các mối quan hệ giữa các cá nhân trong nước” (trang 33). Theo quan niệm này, thể chế là các cấu trúc xã hội, các mô hình quản lý lâu dài, ổn định nhưng dễ bị thay đổi và hoạt động khi triển khai từ cấp độ vĩ mô đến cấp vi mô. Thể chế cũng là một đặc điểm để phân biệt các doanh nghiệp vì các doanh nghiệp khác nhau có các thể chế khác nhau.

   2. Thể chế chính thức và phi chính thức

Như đã trình bày ở trên, thể chế là những quy tắc hoặc những ràng buộc do con người tạo ra nhằm tạo cơ chế khuyến khích sự trao đổi, phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Các ràng buộc thể chế bao gồm những điều các cá nhân được phép, không được phép hoặc nên làm. Theo cách này, thể chế là khung chuẩn mực mà con người phải tuân theo khi tương tác với nhau. Phân biệt rõ ràng các loại hình thể chế (loại hình quy tắc) cho phép các doanh nghiệp dễ dàng phân tích và áp dụng phù hợp từng loại thể chế vào doanh nghiệp mình.

 Theo North (1990), thể chế được chia thành 2 loại, bao gồm thể chế chính thức và thể chế phi chính thức (Formal and Informal Institutions). Thể chế chính thức là chính sách bằng văn bản, luật pháp và các quy định được cơ quan quyền lực nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Chúng cũng bao gồm các quy tắc trong các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,… (North, 2005). Trong đó, quy tắc có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, ví dụ như quy tắc chính trị có khả năng tác động tới các quy tắc kinh tế và ngược lại. Bên cạnh đó, các thể chế chính thức thể hiện sự phân cấp rõ rệt: “từ hiến pháp, luật lệ và luật pháp thông thường, các luật lệ cụ thể, và cuối cùng là các hợp đồng cá nhân” (North, 1990).

Thể chế phi chính thức là các quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức và các hiệp ước, công ước được kí kết tự nguyện. Mặc dù không được ban hành chinhs thức, tuy nhiên các quy tắc này được xã hội thừa nhận, tạo thành chuẩn mực văn hóa chung của một doanh nghiệp hoặc quốc gia. Thể chế phi chính thức cũng là một nguồn quan trọng trong xây dựng thể chế chính thức. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng, kết hợp song song với thể chế chính chức nhằm thực hiện các chức năng quản lý. Các thể chế phi chính thức tồn tại để điều phối các hoạt động có tính lặp lại của con người, cụ thể như: mở rộng, xây dựng và sửa đổi các quy tắc chính thức; các hành vi sai trái; và các tiêu chuẩn phải tuân theo.

Về cơ bản, thể chế chính thức và phi chính thức đều có vai trò quan trọng trong quản lý, kiểm soát và định hướng các hành động của con người. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh rằng, 2 loại thể chế có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Các thể chế không chính thức đôi khi là kết quả của các thể chế chính thức và ngược lại. Dưới đây trình bày về mối quan hệ của các loại thể chế; có thể bổ sung và tăng hiệu quả của các thể chế không chính thức:

  • Tạo ra một nhóm các tổ chức
  • Thiết lập hệ thống các quyền và đặc quyền
  • Cung cấp một cấu trúc mối quan hệ trao đổi ổn định trong cả hai thị trường kinh tế và chính trị
  • Phát triển hệ thống quản lý căn bản của quốc gia với một loạt các cơ chế thực thi và bảo đảm thực thi pháp luật
  • Xúc tiến triển khai, đảm bảo thực thi các cơ chế, quy tắc trên thực thế

Một cách khái quát, bản chất của thể chế thể hiện ở một số điểm quan trọng sau đây:

  • Các thể chế có thể là chính thức hoặc phi chính thức;
  • Nghiên cứu về các thể chế có phạm nghi nghiên cứu rộng hơn các nghiên cứu khoa học xã hội;
  • Các thể chế cung cấp cơ sở quản lý, kiểm soát hệ thống kinh tế xã hội;
  • Các thể chế hạn chế và tạo động cơ khuyến khích cho các hoạt động kinh tế;
  • Các thể chế duy trì các mối quan hệ giữa con người thông qua các tieue chuẩn hành động chung.
  • Các thể chế có thể là hữu hình hoặc vô hình (được thể hiện dưới dạng văn bản hay truyền miệng,…;

 

Nguồn: Phan Thanh Tú, Vũ Mạnh Chiến, Phạm Văn Kiệm, Lưu Đức Tuyến, Nguyễn Thị Hồng Nga (2018), Học Thuyết Doanh Nghiệp, NXB Lao Động – Xã Hội, trang 69 – 72.