Thuyết nguồn lực RBV (Resource-Based View): quan điểm chính và mô hình VRIN lợi thế cạnh tranh bền vững

Tư tưởng chính của học thuyết nguồn lực RBV (Resource-Based View) là lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp nằm chủ yếu trong việc doanh nghiệp đó sử dụng hiệu quả một tập hợp các nguồn lực hữu hình và/hoặc vô hình có giá trị. Các doanh nghiệp trên thị trường khác nhau vì sở hữu các nguồn lực khác nhau. Theo RBV, doanh nghiệp được định nghĩa là nơi tập trung, kết phối hợp các nguồn lực một cách hiệu quả hơn so với thị trường. Doanh nghiệp sẽ thành công nếu được trang bị các nguồn lực phù hợp nhất và biết phối kết hợp các nguồn lực một cách hiệu quả hơn so với các đối thủ cạnh tranh. RBV tập trung phân tích các nguồn lực bên trong của doanh nghiệp cũng như liên kết các nguồn lực bên trong với môi trường bên ngoài. Do vậy, theo RBV, lợi thế cạnh tranh liên quan đến sự phát triển và khai thác các nguồn lực và năng lực cốt lõi của doanh nghiệp.

Lợi nhuận và sự khác nhau giữa các doanh nghiệp

Nguồn: theo Barney (1991)

Mô hình trên thể hiện và giải thích sự khác biệt giữa các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp sở hữu những nguồn lực khác nhau và không thể chuyển đổi hoàn toàn, do đó triển khai các chiến lược khác nhau và đạt được vị thế cạnh tranh khác nhau; từ đó dẫn đến hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp cũng là khác nhau. Hiệu quả kinh doanh này được thể hiện thông qua hai loại lợi nhuận có được từ sự khan hiếm của nguồn lực và bán lợi nhuận.

1. Tính không đồng nhất và giới hạn trong chuyển đổi của nguồn lực

Giả sử tồn tại một nền kinh tế trong đó các doanh nghiệp sở hữu những nguồn lực giống nhau, điều này khiến các doanh nghiệp sử dụng một lượng vốn, con người, vật chất… giống nhau. Khi đó sẽ không thể tồn tại một chiến lược nào của doanh nghiệp mà các doanh nghiệp khác không thể nhận diện và thực hiện tương tự. Khi tất cả các doanh nghiệp đều thực hiện những chiến lược giống nhau, hiệu suất và hiệu quả của họ cũng như nhau; và lợi thế cạnh tranh bền vững hoàn toàn trở nên vô nghĩa.

Thực tế khẳng định không tồn tại một nền kinh tế nào như trên, và khái niệm lợi thế cạnh tranh bền vững được các tác giả RBV giải thích trên quan điểm nguồn lực. Các nguồn lực có giá trị thường hiếm có ví dụ như các nguồn lực từ môi trường tự nhiên đặc thù như tài nguyên khoáng sản, điều kiện địa lý thuận lợi mà khó thể tìm được một loại tài nguyên tương đồng. Hoặc các nguồn lực có thể mang tính đặc thù, gắn với đặc điểm, quy trình và phương pháp doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh. Nguồn lực đặc thù là nguồn lực mà chỉ doanh nghiệp đó sở hữu, ví dụ như nguồn lực về nền tảng công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao… Khác biệt về hiệu quả sử dụng là cách mà doanh nghiệp kết hợp các nguồn lực với nhau để đem lại lợi nhuận cao nhất. Đó là nguyên nhân lý giải vì sao mà các doanh nghiệp thành công hơn các đối thủ khác, mặc dù trong một ngành có thể có nhiều doanh nghiệp cùng sở hữu các nguồn lực đặc thù. Khởi đầu, các doanh nghiệp có thể kiểm soát những nguồn lực tương đồng, nhưng theo thời gian, những doanh nghiệp sáng suốt nắm bắt được thời cơ và đi đầu trong thực thi chiến lược sẽ xây dựng được cho mình những nguồn lực khác biệt và đạt được lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ khác.

Mặt khác, lợi thế cạnh tranh không thể bền vững, nếu nguồn lực, vốn khác nhau giữa các doanh nghiệp, nhưng có thể chuyển đổi hoàn toàn giữa họ (Bain, 1956). Vì nếu điều đó xảy ra, trong dài hạn, mọi doanh nghiệp đều có khả năng tiếp cận và sở hữu bất cứ nguồn lực nào; chúng ta lại quay trở về một nền kinh tế hoàn toàn đồng nhất. Sự tồn tại của những rào cản trong chuyển đổi khiến các doanh nghiệp khác nhau; các rào cản gia nhập phân biệt các doanh nghiệp trong và ngoài ngành; và cho phép một doanh nghiệp trong ngành có được lợi thế cạnh tranh bền vững (Porter, 1980). Như vậy, lợi thế cạnh tranh chỉ bền vững giữa các doanh nghiệp cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn khi các nguồn lực mà họ kiểm soát là không đồng nhất và không thể chuyển dịch hoàn toàn (Barney, 1991).

Cơ chế ngăn cản hay hạn chế khả năng chuyển đổi các nguồn lực giữa các doanh nghiệp gắn liên với một hoặc hai cấu thành. Thứ nhất là bản quyền, một hình thức bảo hộ của luật pháp đối với tác giả của “các tác phẩm gốc của tác giả”, bao gồm tác phẩm văn học, sân khấu, âm nhạc, nghệ thuật và các tác phẩm trí tuệ khác….Đối với môi trường kinh doanh, luật bản quyền giúp cho doanh nghiệp duy trì được lợi thế cạnh tranh nếu doanh nghiệp đó đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. Trường hợp vi phạm bản quyền thì doanh nghiệp hoàn toàn có thể khởi kiện lên tòa án để xem xét. Do vậy mà các đối thủ muốn sao chép các phát minh cũng phải xét đến hệ quả của việc vi phạm bản quyền: đền bù nếu doanh nghiệp sở hữu thắng kiện, ảnh hưởng đến uy tín chất lượng nếu bị tòa kết luận là vi phạm bản quyền chẳng hạn như bị người tiêu dùng tẩy chay, bị các nhà đầu tư rút vốn… Như vậy có thể thấy bản quyền trong môi trường cạnh tranh hiện đại khi Luật bản quyền ra đời chính là rào cản cho các đổi thủ sao chép lợi thế cạnh tranh.

Cơ chế ngăn cản chuyển đổi nguồn lực thứ hai là tính mập mờ trong quan hệ nhân quả của nguồn lực (causal ambiguity). Sự thiếu hiểu biết chính xác về cả nguồn gốc sinh ra và phát triển của nguồn lực là rào cản sao chép (imitation barriers) lớn nhất đối với các đối thủ cạnh tranh và cho phép duy trì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khởi đầu ra nguồn lực. Cụ thể, khi mối liên kết giữa các nguồn lực của doanh nghiệp và việc duy trì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp chưa được hiểu rõ, đó là điều khó khăn cho các doanh nghiệp đang cố gắng sao chép những chiến lược thành công của một doanh nghiệp thông qua việc sao chép những nguồn lực đó. Sự mơ hồ về nguyên nhân hình thành là nguyên nhân chính của khó khăn này. Một khi phải đối mặt với sự mơ hồ này thì doanh nghiệp sao chép không thể biết được những hành động, những chiến lược mà họ cần phải làm để sao chép lại những chiến lược của doanh nghiệp thành công. Đây chính là những yếu tố quan hệ giữa hành động và kết quả đầu ra hay hiệu quả đạt được “tính mập mờ liên quan đến bản chất của những liên kết nhân quả giữa hành động và kết quả” (Lippman và Rumelt, 1982, p.420).

Tính mập mờ trong quan hệ nhân quả (causal ambiguity) được Arrègle (1995) và Reed và De Fiilippi (1990) giải thích chi tiết hơn thông qua ba đặc tính của nguồn lực, khiến cho các đối thủ khó có thể sao chép được lợi thế cạnh tranh từ doanh nghiệp thành công. Thứ nhất là tính riêng biệt, đặc tính trong đó doanh nghiệp sở hữu trang thiết bị và kiến thức phát triển chuyên biệt cho quá trình sản xuất hay cung ứng dịch vụ cho một khách hàng riêng biệt. Thứ hai là tính phức tạp, theo đó, số lượng đơn vị cấu thành và số quan hệ qua lại giữa chúng trong quán trình tạo dựng và/hoặc vận hành; ví dụ: một nhóm 3 người có 3 mối quan hệ; trong khi một nhóm 5 người có 12 mối quan hệ. Như vậy có thể thấy số lượng đơn vị cấu thành càng nhiều thì mối quan hệ qua lại giữa chúng càng phức tạp. Doanh nghiệp sở hữu nhiều lợi thế cạnh tranh và mức độ liên kết giữa chúng càng nhiều thì khả năng sao chép từ các doanh nghiệp đối thủ càng khó. Cuối cùng là tính tiềm ẩn, những yếu tố không thể hoặc rất khó có thể thể hiện bằng lời, không thể truyền đạt bằng ngôn ngữ vì khả năng giới hạn của con người. Cái mà Polanyi (1966) gọi là những gì “chúng ta biết nhiều hơn những gì chúng ta có thể biểu đạt”(trang 4) và chỉ có thể tiếp thu được qua trải nghiệm thực tế. Vì vậy, “mọi toan tính rút ngắn thời gian tạo ra nguồn lực đều dẫn đến hiệu quả kém hơn so với doanh nghiệp gốc sáng tạo ra nguồn lực” (Arrègle, 1995).

Ví dụ về tính mập mờ trong quan hệ nhân quả tại Toyota, một công ty đa quốc gia có trụ sở tại Nhật Bản là nhà sản xuất xe ô tô lớn nhất thế giới. Công ty luôn sẵn sàng mở cửa để mọi người đến thăm xưởng sản xuất chính trong 2 ngày/tháng, khiến một số đối thủ chủ tâm nghiên cứu sao chép. Tuy nhiên bất chấp hàng chục năm sao chép, không một doanh nghiệp nào có thể hạ bệ được Toyota ở vị trí doanh nghiệp sản xuất ô tô có lợi nhuận cao nhất thế giới. Nguyên nhân là ở tại Toyota tồn tại các mối liên kết nguồn lực rất phức tạp theo quy trình quản lý ba cấp 3 cấp: Kỹ thuật, Hệ thống & Triết lý. Khâu vận hành tại Toyota được ví như một vũ đạo múa trong đó mỗi vũ công đều có một vị trí chính xác; một buổi diễn thành công không chỉ cần mỗi vũ công hiểu ra công việc của mình mà những di chuyển của họ cũng phải đạt chất lượng cao, đồng đều ăn khớp với các vũ công khác.

2. Mô hình VRIN về nguồn lực và lợi thế cạnh tranh bền vững

Một doanh nghiệp được cho là đạt lợi thế cạnh tranh (Competitive advantage) khi nó thực hiện một chiến lược tạo ra giá trị và chiến lược này không đồng thời được thực hiện bởi bất kỳ đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng nào. Một doanh nghiệp được cho là có lợi thế cạnh tranh bền vững (Sustained Competitive advantage) khi thực hiện một chiến lược tạo ra giá trị mà chiến lược đó cũng không đồng thời được thực hiện bởi bất kỳ đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng nào và các doanh nghiệp khác không thể sao chép lặp lại những lợi ích của chiến lược này. Cần nhấn mạnh hai khái niệm trên không chỉ đề cập đến đối thủ hiện tại mà đều nhấn mạnh các “đối thủ tiềm tàng”, là những đối thủ sẽ gia nhập ngành trong tương lai.

Khái niệm bền vững gắn liền với khả năng duy trì lợi thế cạnh tranh theo khoảng thời gian tồn tại. Tuy nhiên định nghĩa về lợi thế bền vững không hướng đến khoảng thời gian mà doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế mà hướng đến năng lực duy trì lợi thế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một lợi thế cạnh tranh được duy trì bền vững hay không phụ thuộc vào khả năng mà các đối thủ có thể sao chép lại năng lực cạnh tranh đó. Theo nghiên cứu của Lippman và Rumelt (1982) và Rumelt (1984) thì một lợi thế cạnh tranh được duy trì chỉ khi nếu tiếp tục tồn tại cùng doanh nghiệp sở hữu sau khi các mà doanh nghiệp đối thủ dừng nỗ lực sao chép.

Tuy nhiên, lợi thế cạnh tranh duy trì bền vững không có nghĩa là nó sẽ kéo dài mãi mãi. Điều này chỉ có nghĩa rằng doanh nghiệp sở hữu sẽ không bị cạnh tranh bởi những nỗ lực sao chép của các đối thủ khác. Những biến động của môi trường kinh tế, hoán đổi hoặc mất đi của một hoặc một số nguồn lực sẽ khiến cho việc duy trì lợi thế cạnh tranh bị ảnh hưởng hoặc tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới. Trong một vài hoàn cảnh, những điểm mạnh của lợi thế trước đây có thể trở thành những điểm yếu và đe dọa đến thành công hay duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp. Một ví dụ minh chứng đó là sự chuyển dịch của nguồn lực con người, sẽ mang theo họ kiến thức, kinh nghiệm, có thể áp dụng tại các đối thủ cạnh tranh.

Theo quan điểm nguồn lực RBV, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp bắt nguồn từ nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu (Grant, 1991; Barney, 1991). Nguồn lực tạo lợi thế cạnh tranh có 4 đặc điểm sau, theo mô hình VRIN của Barney (1991):

  • Có giá trị (valuable): Nguồn lực của doanh nghiệp chỉ có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh hoặc lợi thế cạnh tranh bền vững cho doanh nghiệp khi chúng có giá trị. Các nguồn lực có giá trị nếu cho phép doanh nghiệp thực hiện các chiến lược nhằm cải thiện hiệu suất và hiệu quả kinh doanh thong qua khai thác được những cơ hội và/hoặc vô hiệu hóa được những mối đe dọa trong môi trường hoạt động của doanh nghiệp;
  • Khan hiếm (rare): Nguồn lực phải khan hiếm và khó có thể tìm kiếm được ở các đối thủ cạnh tranh, nếu không lợi thế tạo ra từ nguồn lực đó sẽ nhanh chóng bị các đối thủ bắt chước. Thực tế, rất khó để biết liệu những nguồn lực có giá trị của doanh nghiệp có phải hoàn toàn là duy nhất đối với các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp hay không, những nguồn lực này sẽ tạo ra ít nhất là một lợi thế cạnh tranh và có thể có tiềm năng tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững. Tuy nhiên, cũng có thể có một số lượng nhỏ các doanh nghiệp trong nền công nghiệp sở hữu một nguồn lực có giá trị riêng và cũng tạo ra lợi thế cạnh tranh. Nói chung, miễn là số lượng các doanh nghiệp sở hữu nguồn lực có giá trị đặc biệt ít hơn số lượng các doanh nghiệp cần tạo ra động lực cạnh tranh hoàn hảo trong nền kinh tế thì các nguồn lực đó có tiềm năng để tạo ra lợi thế cạnh tranh;
  • Khó bắt chước hay sao chép (In-imitable): Nguồn lực phải khó có thể bị bắt chước một cách hoàn hảo y hệt được thì mới đảm bảo lợi thế cạnh tranh bền vững. Nếu không, chỉ trong một thời gian ngắn, các đối thủ đều sẽ sao chép sở hữu được nguồn lực cần thiết để triển khai các chiến lược tương tự như doanh nghiệp. Theo cơ chế ngăn cản chuyển đổi nguồn lực ở trên, khi sự kết nối giữa các nguồn lực của doanh nghiệp với lợi thế cạnh tranh bền vững của nó chi được nắm bắt một cách hạn chế, sẽ rất khó cho các đối thủ sao chép. Những doanh nghiệp bắt chước có thể mô tả một vài nguồn lực của doanh nghiệp thành công, tuy nhiên, sẽ không thấy được một cách rõ ràng những nguồn lực được tạo ra có giống với những nguồn lực tạo nên lợi thế cạnh tranh bền vững cho doanh nghiệp hay không;
  • Khó có thể thay thế (Non-substitutable): Mặc dù các đối thủ một doanh nghiệp không thể bắt chước một cách chính xác nguồn lực của doanh nghiệp khác nhưng vẫn thay thế bằng một nguồn lực tương tự cho phép thực hiện chiến lược giống với doanh nghiệp sở hữu nguồn lực đặc biệt. Vì vậy, chỉ khi đặc tính khó có thể thay thế được chứng minh thì một nguồn lực mới có thể đảm bảo lợi thế cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp.

Bốn đặc điểm trên của nguồn lực được coi là những chỉ số thể hiện tính không đồng nhất và không chuyển đổi các nguồn lực cho phép doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững. Ví dụ như nguồn lực Microsoft, một công ty đa quốc gia có trụ sở tại Mỹ, chuyên phát triển, sản xuất, kinh doanh bản quyền phần mềm và hỗ trợ trên diện rộng các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến máy tính. Nếu tính theo doanh thu thì Microsoft là hãng sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới, hai nguyên nhân dưới đây giải thích cho sự thành công của công ty. Thứ nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong nhiều năm qua, Microsoft đã tập hợp được hàng nghìn nhà nghiên cứu xuất sắc nhất trong lĩnh vực của họ từ các trường đại học danh tiếng hoặc từ các đối thủ cạnh tranh. Thứ hai là khả năng kết hợp các nguồn lực. Microsoft đã thành công trong việc kết hợp năng lực của những nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau như lập trình, thống kê, ngôn ngữ học, thương mại …

3. Hạn chế của quan điểm tiếp cận nguồn lực

Quan điểm nguồn lực RBV có một số hạn chế. Thứ nhất, học thuyết không có sự chú trọng cần thiết vào thực tế là các giá trị tài nguyên có thể bị mất dần đi giá trị, tức là tác độ tiêu cực của biến đổi bên ngoài đến các nguồn lực hoặc tài sản. Thứ hai, rất khó hoặc không thể tìm ra được những nguồn lực mà đáp ứng tất cả các đặc tính theo mô hình VRIN của Barney (1991). Thứ ba, thực tế chứng minh rằng giả định một doanh nghiệp đạt lợi nhuận trong một thị trường cạnh tranh cao khi có thể khai thác được các nguồn lực có lợi thế không phải lúc nào cũng cần thiết. Học thuyết nguồn lực RBV bỏ qua các yếu tố bên ngoài liên quan đến các ngành công nghiệp như một tổng thể; doanh nghiệp cũng nên xem xét cơ cấu ngành theo mô hình phân tích năm áp lực của Porter (1985). Cuối cùng là những phê bình về khái niệm “bền vững”, khi thiếu một định nghĩa chính xác của tính bền vững làm tiền đề để thực hiện kiểm tra thực nghiệm. Đề xuất của Barney (2001) rằng lợi thế cạnh tranh được duy trì nếu các đối thủ hiện tại và tương lai đã ngừng nỗ lực sao chép mang tính tương đối về mặt lý thuyết, nhưng không phù hợp với quan điểm thực tế về mục tiêu cuối cùng không rõ ràng của các doanh nghiệp sở hữu cũng như đi sao chép trong ngành.

Nguồn: Phan Thanh Tú, Vũ Mạnh Chiến, Phạm Văn Kiệm, Lưu Đức Tuyến, Nguyễn Thị Hồng Nga (2018), Học Thuyết Doanh Nghiệp, NXB Lao Động – Xã Hội, trang 377-383.