Vấn đề quy mô nhỏ (liability of smallness) của doanh nghiệp trong hệ sinh thái

Quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng một cách hệ thống đến khả năng tồn vong của doanh nghiệp. Các kết quả cho thấy, không chỉ vấn đề mới hình thành, mà còn vấn đề quy mô nhỏ cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh tồn của doanh nghiệp. Quy mô liên quan đến sức ỳ của bộ máy và điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động, đến tồn vong của doanh nghiệp. Hannan và Freeman (1984) cho rằng “mức độ ỳ có cấu trúc tăng lên theo kích cỡ”; tức kích cỡ càng lớn thì sức ì càng cao và ngược lại. Trong xã hội hiện đại, quá trình lựa chọn ưu tiên các doanh nghiệp có sức ỳ cấu trúc lớn hơn, khi đó các doanh nghiệp lớn sẽ có tỷ lệ tử vong thấp hơn; các doanh nghiệp nhỏ sẽ có tỷ lệ tử vong cao hơn. Nguy cơ các doanh nghiệp nhỏ có tỷ lệ tử vong cao hơn được gọi là vấn đề quy mô nhỏ (Aldrich và Auster, 1986; Freeman và các cộng sự, 1983).

Aldrich và Auster (1986) đã đưa ra một số suy luận về vấn đề quy mô nhỏ (liability of smallness). Các doanh nghiệp nhỏ có một số nhược điểm khi so với các doanh nghiệp lớn. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn. Các doanh nghiệp nhỏ thường chiếm được ít lòng tin từ các nhà đầu tư do quy mô nhỏ, nguồn thu nhỏ và sức sống yếu. Do đó ít thu hút được đầu tư. Điều đó kéo theo các doanh nghiệp nhỏ thường thiếu vốn và dễ bị giải thể. Bên cạnh đó, theo luật thuế, đặc biệt là việc xử lý thuế của vốn huy động thuận tiện, thúc đẩy các chủ sở hữu doanh nghiệp nhỏ bán ra cho các doanh nghiệp lớn với mục đích thâu tóm được khấu trừ thuế. Dưới góc nhìn của chính phủ thì các quy định thương mại ảnh hưởng nhiều hơn tới các doanh nghiệp nhỏ khi họ cố gắng đối phó với chính quyền thành phố, quận, bang và liên bang. Cuối cùng, cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn về đầu vào lao động, các doanh nghiệp nhỏ gặp nhiều bất lợi, vì họ không thể cung cấp sự ổn định lâu dài cho người lao động như các doanh nghiệp lớn.

Mặc dù vấn đề quy mô nhỏ quan trọng, nhưng một lý do quan trọng khác đã được nghiên cứu là vấn đề tính mới. Hầu hết các doanh nghiệp mới đều nhỏ. Nếu các doanh nghiệp nhỏ có tỷ lệ tử vong cao hơn, do đặc điểm của vấn đề tính nhỏ. Vai trò của tính mới và tính nhỏ bị nhầm lẫn và cần phải được tách ra. Vì vậy, nhiều nghiên cứu về tính mới cũng tập trung vào vấn đề quy mô nhỏ.

Có một số trường hợp ngoại lệ mở rộng cho ác trường hợp phổ biến nhờ vào thực nghiệm và xây dựng các mô hình phức tạp hơn giúp xác định kết quả một cách vững chắc hơn.

 

Nguồn: Phan Thanh Tú, Vũ Mạnh Chiến, Phạm Văn Kiệm, Lưu Đức Tuyên, Nguyễn Thị Hồng Nga (2019), Học thuyết doanh nghiệp, NXB Lao Động – Xã Hội, trang 138 – 141.